I. KHÁI NIỆM
- Theo Y học hiện đại
Các rối loạn tâm căn là một nhóm nhiều rối loạn có căn nguyên tâm lý
trong bệnh lý tâm thần, chiếm 3-5% dân số, nhẹ về mặt triệu chứng, nhưng tiến
triển kéo dài và phức tạp do phụ thuộc vào nhiều nhân tố (nhân cách, stress,
môi trường xã hội…). Trong đó bệnh tâm căn suy nhược thường gặp nhất, với các
biểu hiện mất ngủ, nhức đầu và giảm trí nhớ, 60% gặp ở những người lao động trí
óc, từ 30-50 tuổi, thành thị và nam giới nhiều hơn.
- Theo Y học cổ truyền
Suy nhược thần kinh còn gọi là Tâm căn suy nhược được miêu tả trong phạm vi nhiều chứng bệnh: Kinh Quý, Chinh Xung, Kiện Vong, Thất Miên… của Đông y.
II. NGUYÊN NHÂN
Bệnh
suy nhược thần kinh được xác định là do căn nguyên tâm lý gây nên hay còn gọi
là tâm căn suy nhược. Căn nguyên tâm lý rất đa dạng, đó là những căng thẳng tâm
lý cấp tính hay mạn tính như: những tổn thất về người và của đột ngột, những
mâu thuẫn kéo dài trong gia đình và trong công tác hoặc lao động trí óc căng thẳng
kéo dài, tham vọng không thành.
Trong
thực hành lâm sàng còn có hội chứng suy nhược thần kinh sau các bệnh thực thể
như:
- Chấn
thương sọ não
- Vữa
xơ động mạch não
- Thiểu
năng tuần hoàn não
- Bệnh
lý dạ dày tá tràng
- Tăng
huyết áp
- Bệnh
nội tiết (đái tháo đường, Basedow...) và sau một số bệnh nhiễm khuẩn...
III. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG
- Biểu hiện lâm
sàng suy nhược thần kinh chủ yếu là các triệu chứng chủ quan của người bệnh xuất
hiện sau những chấn thương tâm lý và một số bệnh nội khoa. Các dấu hiệu sớm thường
là nhanh mệt mỏi, khó tập trung vào công việc, ăn kém ngon, ngủ không sâu giấc.
Đến giai đoạn điển hình có các triệu chứng sau:
- Bệnh nhân thường kêu ca phàn nàn, mệt mỏi, dai dẳng tăng lên sau một cố gắng
trí óc hoặc một cố gắng tối thiểu về thể lực. Tự nhiên đau mỏi cơ bắp, khả năng
làm việc giảm sút, chóng mệt, hiệu quả thấp.
- Bệnh nhân kém kiên nhẫn, không chịu nổi khi phải chờ đợi, dễ kích thích, nóng
nảy, cáu gắt, phản ứng quá mức. Khi có ý định làm việc gì bệnh nhân muốn nôn
nóng làm ngay nhưng khó làm, lại mau chán, mệt mỏi hay bỏ cuộc.
- Bệnh nhân dễ xúc động, mủi lòng, dễ khóc, lo lắng, mất tự chủ, khí sắc giảm.
- Đau đầu: bệnh nhân đau âm ỉ lan tỏa toàn bộ đầu, có cảm giác như đội mũ, thắt
khăn chặt, đau đầu tăng lên khi có kích thích, suy nghĩ, lo lắng có thể kèm
theo chóng mặt, choáng váng.
- Mất ngủ: khó đi vào giấc ngủ, ngủ không say, hay có mộng, dễ đánh thức và khó
ngủ lại, đôi khi mất ngủ trắng đêm, nếu mất ngủ kéo dài thấy quầng mắt bị thâm,
sáng dậy bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi, ngáp vặt.

- Giảm trí nhớ: bệnh nhân giảm cả trí nhớ gần và trí nhớ xa nhưng đặc biệt là trí nhớ gần, học hành sút kém và khó tiếp thu cái mới.- Rối loạn thần kinh thực vật như hay hồi hộp, đánh trống ngực, mạch nhanh, khó thở, toát mồ hôi, có từng cơn nóng bừng hay lạnh toát, run chân tay, run mi mắt, giảm hoạt động tình dục, di mộng tinh ở nam giới, rối loạn kinh nguyệt ở nữ giới.
Các triệu chứng trên kéo dài có tính dai dẳng, hay tái phát, nghỉ ngơi thư giãn hồi phục ít hay không hồi phục.
IV. CHẨN ĐOÁN
Chẩn
đoán thể bệnh: tuy có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng người ta thống nhất chia
làm các thể bệnh: suy nhược thần kinh thể cường và thể nhược.
Suy
nhược thần kinh thể cường: quá trình ức chế tích cực, ức chế có điều kiện nhưng
dễ bị suy yếu. Bệnh nhân dễ có triệu chứng kích thích và mất khả năng tự chủ.
Suy
nhược thần kinh thể nhược: thường xuất hiện ức chế bảo vệ quá giới hạn, quá
trình hưng phấn suy yếu rõ, bệnh nhân có biểu hiện các triệu chứng suy nhược thần
kinh.
V. ĐIỀU TRỊ
Các
thuốc tác động lên cơ chế sinh bệnh
Các
thuốc có tác dụng lên quá trình hưng phấn hệ thần kinh: Sulbutiamine (Arcalion)
hoặc Asthenal uống sau ăn sáng.
Các
thuốc khác có tác dụng chữa triệu chứng:
Tăng
cường tuần hoàn và dinh dưỡng não: Piracetam, Ginkgo biloba...
Thuốc
an thần, trấn tĩnh: nên dùng các thuốc có tác dụng an thần nhẹ, trấn tĩnh. Tuy
nhiên nhóm thuốc này thường gây quen thuốc nên sử dụng cần thận trọng.
Thuốc
giảm đau: hay dùng là các dẫn chất của Paracetamol: các thuốc này có đặc điểm
là tác dụng nhanh nhưng bất lợi là độc với gan nếu dùng liều cao và thường
xuyên. Khi sử dụng nên dùng xa bữa ăn, uống với nhiều nước.
Các Vitamin: Đây là nhóm thuốc cung cấp các yếu tố vi lượng, có tác dụng tới quá
trình chuyển hoá của cơ thể.