Xoa bóp có đặc điểm là dùng sự khéo léo và sức mạnh của đôi tay là chính để tác động lên huyệt, da thịt, gân khớp của người được xoa bóp một lực thích hợp tạo cho người được xoa bóp cảm giác sảng khoái nhằm làm dịu đi chứng đau mỏi của cơ, khớp, thần kinh. Nếu được thực hiện đúng kỹ thuật, đúng chỉ định, xoa bóp bấm huyệt có thể mang lại những hiệu quả tốt.
Tác dụng của xoa bóp, bấm huyệt
Tác
dụng tại chỗ: Khi xoa bóp, lớp sừng của biểu bì bong ra làm hô hấp của da được
tốt hơn, mặt khác tăng cường chức năng của tuyến mỡ, tuyến mồ hôi nên sự đào thải
các chất bã qua tuyến mồ hôi sẽ tốt hơn. Xoa bóp làm giãn mạch máu, tăng tuần hoàn
tại chỗ, có lợi cho việc dinh dưỡng ở da, làm cho da co giãn tốt, da bóng đẹp
và mịn.
Đối
với hệ thần kinh, xoa bóp tác động trực tiếp lên các thụ cảm thần kinh dày đặc ở
dưới da tạo ra các đáp ứng phản xạ thần kinh từ đó gây nên tác dụng điều hòa quá
trình hưng phấn hay ức chế thần kinh trung ương, làm thư giãn thần kinh, giảm
căng thẳng, tăng khả năng tập trung.
Đối
với cơ gân khớp, xoa bóp làm tăng tính đàn hồi của cơ, tăng khả năng làm việc,
sức bền cơ và làm giãn cơ những nhóm cơ đã bị co cứng trước đó. Trong các bệnh
khớp, gân, dây chằng bao giờ cũng có hiện tượng co cứng các nhóm cơ xung quanh
khớp, từ đó gây đau, hạn chế vận động. Xoa bóp có thể cải thiện các tình trạng
trên. Xoa bóp thường xuyên làm tăng tính linh hoạt của khớp và làm giảm khả
năng bị chấn thương, cải thiện tư thế.
Đối
với hệ tuần hoàn, xoa bóp làm giãn mạch, trở lực trong long mạch giảm đi, mặt
khác xoa bóp trực tiếp đẩy máu về tim, do đó xoa bóp vừa giảm gánh nặng cho tim
vừa giúp cho máu trở về tim tốt hơn.
Ngoài
ra, xoa bóp còn kích thích hệ thống lympho, làm tăng miễn dịch và cơ chế bảo vệ
tự nhiên của cơ thể, điều hòa chức năng nội tạng, tăng cường nhu động của dạ
dày, ruột và cải thiện chức năng tiêu hoá. Xoa bóp còn có nhiều tác dụng khác
góp phần phục hồi sức khỏe.
Theo
y học cổ truyền, xoa bóp thông qua tác động vào các huyệt, kinh lạc (kinh cân)
có thể đuổi được ngoại tà, điều hòa được dinh vệ, thông kinh hoạt lạc và điều
hòa chức năng tạng phủ.
Những ưu và nhược điểm của xoa bóp
Xoa bóp có nhiều ưu điểm như chi phí thấp so với các phương pháp điều trị khác.
Xoa bóp giúp giải tỏa căng thẳng, mệt mỏi cho người bệnh bởi sau khi tiến hành
bấm huyệt, người bệnh sẽ thấy khỏe mạnh, tinh thần thoải mái. Ngoài ra xoa bóp
là một phương pháp điều trị giảm đau không dùng thuốc hiệu quả. Người bệnh vẫn
có thể giảm đau nhanh chóng mà không phải uống thuốc cũng như không phải chịu
tác dụng phụ của thuốc chữa bệnh. Mặc dù đây là phương pháp an toàn, dễ thực hiện, tuy
nhiên cũng cần lưu ý cần được thực hiện bởi những người được đào tạo bài bản,
đúng chỉ định, tránh không lạm dụng phương pháp này vì vẫn có thể xảy ra biến
chứng như co giật, chấn thương hoặc liệt.
Chỉ định và chống chỉ định của xoa bóp
Chỉ
định:
Chống
đau: đau đầu, đau vai gáy, đau lưng mạn tính, đau cơ, viêm đau dây, rễ thần
kinh do thoái hóa cột sống cổ,
thoái hóa cột sống lưng, đau quanh khớp vai.
Các
trường hợp co cứng cơ: liệt cứng, co cứng cơ do kích thích rễ, dây thần kinh. Tăng
cường tuần hoàn và dinh dưỡng cho da, dưới da, cơ, thần kinh trong các bệnh bại,
liệt, teo cơ. Kích thích phục hồi dẫn truyền thần kinh trong tổn thương dây thần
kinh ngoại vi hoặc tổn thương các đám rối thần kinh do các nguyên nhân khác
nhau.
Thư
giãn, chống mệt mỏi căng thẳng thần kinh, giảm stress. Phục hồi cơ bắp sau tập
luyện thể thao hay lao động nặng.
Chống
chỉ định: gãy xương, chấn thương đụng dập cơ
và dây chằng, ở khớp; bệnh tim phổi nặng như nhồi máu cơ tim, suy tim, cơn hen
ác tính, suy hô hấp.
Không
xoa bóp ở vùng lở loét mụn nhọt vì sẽ gây nhiễm khuẩn và lở loét thêm. Khi các
cơ quan bị tổn thương thực thể về ngoại khoa, thí dụ: viêm ruột thừa, thủng dạ
dày, bệnh truyền nhiễm.
Một số động tác xoa bóp cơ bản:
Xát: Dùng
gốc gan bàn tay, mô ngón tay út hoặc mô ngón tay cái xát lên da, theo hướng thẳng
(đi lên, đi xuống hoặc sang phải, sang trái). Tay của thầy thuốc di chuyển trên
da người bệnh.
Xoa: Dùng vân ngón tay, gốc bàn tay hoặc
mô ngón tay út ngón tay cái xoa tròn trên da chỗ đau. Tay của thầy thuốc di
chuyển trên da người bệnh. Là thủ thuật mềm mại, thường dùng ở bụng hoặc nơi có
sưng đỏ.
Day: Dùng
gốc bàn tay, mô ngón tay út, mô ngón tay cái hơi dùng sức ấn xuống da người bệnh
và di chuyểnn theo đường tròn. Tay của thầy thuốc và da của người bệnh dính với
nhau, da người bệnh di động theo tay thầy thuốc. Tác dụng: làm giảm sưng,
hết đau, khu phong, thanh nhiệt, giúp tiêu hóa.
Ấn: Dùng ngón, gốc gan bàn
tay, mô ngón tay cái hoặc mô ngón tay út ấn vào một nơi nào hoặc vào huyệt nào.
Miết: Dùng vân ngón tay
cái miết chặt vào da người bệnh rồi miết theo hướng lên hoặc xuống hoặc sang phải
sang trái. Tay của thầy thuốc di động và kéo căng da của người bệnh. Hay dùng ở
đầu, bụng.
Phân: Dùng
vân các ngón tay hoặc mô ngón tay út của hai ttay, từ cùng một chỗ tẽ ra hai
bên theo hướng ngược nhau. Dùng ở đầu mặt, ngực, lưng.
Hợp: Dùng vân cán ngón
tay hoặc mô ngón tay út của hai tay từ hai chỗ khác nhau đi ngược chiều và cùng
đến một chỗ. Tay của thầy thuốc như ở thủ thuật phân. Dùng ở đầu, bụng, lưng.
Véo: Dùng ngón tay cái,
ngón tay trỏ hoặc những đốt thứ 2 của ngón cái với đốt thứ 3 của ngón tay trỏ kẹp
và kéo da lên, hai tay làm liên tiếp sao cho da của người bệnh luôn luôn như bị
cuộn ở giữa các ngón tay của thầy thuốc. Hay dùng ở lưng, trán.
Ấn: Dùng
ngón tay cái và ngón trỏ để bấm vào các huyệt, a thị huyệt và những nơi
cơ co cứng để điều trị một số bệnh cấp tính và mãn tính.
Bóp: Có thể dùng hai
bàn tay hoặc ngón tay cái và ngón trỏ, ngón nhẫn hoặc ngón cái và bốn ngón tay
kia hoặc hai đầu ngón tay cái và trỏ (khi bóp vào huyệt). Lúc đó vừa bóp vừa
hơi kép thịt lên. Nói chung không lên để thịt và gân trượt dưới tay, vì làm như
vậy gây đau. Nên dùng đốt thứ 3 các ngón tay để bóp, không lên dùng đầu ngón
tay để bóp vào cơ vì làm như vậy gây đau. Thường dùng ở cổ, gáy, vai, nách,
lưng trên, mông và tứ chi. Sức bóp mạnh hay nhẹ tùy đối tượng.
Đấm: Nắm tay lại dùng ô
mô út đấm vào chỗ bị bệnh, thường dùng ở nơi nhiều cơ như lưng, mông, đùi.
Chặt: Duỗi thẳng bàn
tay, dùng ô mô út chặt liên tiếp vào chỗ bị bệnh. Thường dùng ở nơi nhiều cơ
như lưng, mông, đùi. Nếu xoa bóp ở đâu thì xòe các ngón tay, dùng ngón út chặt
vào đầu bệnh nhân. Khi chặt ngón út sẽ đập vào ngón đeo nhẫn, ngón đeo nhẫn sẽ
đạp vào ngón giữa, ngón giữa sẽ đập vào ngón trỏ phát ra tiếng kêu.
Lăn: Dùng
mu bàn tay và ô mô út hoặc dùng các khớp giữa bàn tay và ngón hoặc dùng các khớp
ngón tay vận động nhẹ nhàng khớp cổ tay với một sức ép nhất định lần lượt lăn
trên da thịt bệnh nhân, thường lăn ở nhiều nơi và nơi đau. Thủ thuật này có tác
dụng thấm sâu vào da thịt, diện kích thích lớn, nên hay được dùng trong tất cả
các trường hợp xoa bóp.
Phát: Bàn tay hơi khum
khum, giữa lòng bàn tay lõm, các ngón tay khít lại với nhau phát từ nhẹ đến nặng
vào chỗ bị bệnh. Khi phát da đỏ lên do áp lực trong lòng bàn tay thay đổi gây
nên, chứ không có các vết lằn ngón tay như khi để thẳng ngón tay như để thắng
ngón tay phát. Dùng ở vai, thắt lưng, tứ chi, bụng.